Giá hay chính sách là “vật cản” phát triển vật liệu xây không nung?

Trong khi đó, gạch xi măng cốt liệu giá từ 600 – 750 nghìn đồng, gạch ACC giá khoảng 950 nghìn đ/m2 tùy loại…
Nhằm thúc đẩy sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung (VLXKN) tại Việt Nam, nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi chính sách về VLXKN đã được đưa ra. Giá sản phẩm còn cao cũng là một trong những yếu tố khiến gạch không nung không cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại khác.
Hiện nay đã có 5 Luật, 8 Nghị định, 3 Quyết định, 1 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và 12 Thông tư đang hiện hành, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến khuyến khích phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN trong xây dựng. Phó chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng, TS. Thái Duy Sâm đánh giá, hệ thống văn bản pháp lý thực hiện chương trình phát triển VLXKN đã khá đầy đủ, hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật đã được bổ sung soát xét. Thế nhưng, trong quá trình triển khai thực tế đã bộc lộ những hạn chế đòi hỏi phải chỉnh sửa cho phù hợp.

Phát triển vật liệu xây không nung tại Việt Nam hiện còn nhiều vướng mắc.
Theo TS. Thái Duy Sâm, nên sửa Thông tư 09/2012/TT-BXD ngày 28/11/2012 theo hướng nâng cao tỷ lệ gạch nhẹ trong các công trình cao tầng lên tới 70-80% và quy định cụ thể chế độ báo cáo của nhà đầu tư, nghiên cứu điều kiện cụ thể của từng địa phương để có quy định cho phù hợp.
Trong khi đó, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, PGS.TS Trần Kim Chung cho rằng, không nên quy định “Chủ đầu tư xây dựng công trình sử dụng các loại VLXKN có trách nhiệm báo cáo về tình hình sử dụng VLXKN tới Sở Xây dựng địa phương 6 tháng và 12 tháng một lần”, bởi điều này sẽ tạo gánh nặng thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Việc cần làm là giám sát tuân thủ quy chuẩn. Cơ quan quản lý Nhà nước muốn biết được tình hình thực hiện VLXKN thì chỉ cần nắm được số lượng sản xuất/nhập khẩu là đủ chứ không nên theo dõi quá chi tiết tại chân công trình, vừa rối vừa cồng kềnh bộ máy, tăng thủ tục hành chính không cần thiết.
Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn (Tổng Cục Thuế), ông Nguyễn Văn Phụng kiến nghị Bộ Xây dựng phối hợp, chủ trì với các Bộ, ngành liên quan cần xác định, phân loại rõ các loại VLXKN được xếp vào loại vật liệu quý hiếm, vật liệu nhẹ, trên cơ sở đó có hướng dẫn cụ thể, tuyên truyền để các doanh nghiệp biết.
Với góc nhìn khác, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ xây dựng, TS. Trần Bá Việt nhận định, vướng mắc lớn nhất trong việc phát triển VLXKN chính là vướng mắc về kinh tế chứ không phải chính sách. Khi nhà sản xuất làm việc với nhà thầu, câu đầu tiên được hỏi là “giá bao nhiêu”?, ông Việt cho biết và lấy dẫn chứng: Tại Đà Nẵng, 1m2 gạch nung tường đơn 2 lỗ có giá 610 nghìn đồng, ở Tp.HCM từ 930 – 950 nghìn đồng và Hà Nội là 750 nghìn đồng. Trong khi đó, gạch xi măng cốt liệu giá từ 600 – 750 nghìn đồng, gạch ACC giá khoảng 950 nghìn đ/m2 tùy loại…
Chuyên gia này cho rằng, nếu gạch không nung có giá thấp hơn hoặc bằng với gạch nung thì còn có thể cạnh tranh, giá cao hơn thì rất khó cạnh tranh, hơn nữa gạch không nung còn mang tiếng là hay bị nứt.
Bên cạnh đó, một số chuyên gia cũng đặt câu hỏi: Có hay không lợi ích nhóm trong việc chậm xóa bỏ các lò gạch nung khi mà nhiều nhà đầu tư đã đầu tư rồi, không muốn bỏ để còn thu hồi vốn? Thực trạng này ảnh hưởng rất lớn đến chính sách phát triển VLXKN.

Cùng Danh Mục:

Nội Dung Khác

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *